Tin tức

LỘ TRÌNH CHO HYDRO NHẰM TIẾN ĐẾN MỤC TIÊU NET-ZERO VÀO NĂM 2050 TẠI CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN

Nguyen Chau Minh Giang (Catherine, Ms), Eng
Electrical Engineer - VATEC
June 26
th, 2023


I/ Vì sao chúng ta cần bàn về Hydro?

Tại Hội nghị lần thứ 27 của các Bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (COP27), Các mục tiêu chính đã được thống nhất được các mục tiêu chính sau:

• Đưa phát thải ròng toàn cầu về “0” vào giữa thế kỷ này (năm 2050) ó Giữ cho nhiệt độ Trái đất tăng không quá 1,5ºC vào năm 2050

• Huy động tài chính cho ứng phó với BĐKH đạt 100 tỷ USD mỗi năm

Trong đó, mục tiêu đưa mức phát thải về 0 vào năm 2050 đã được cam kết thực hiện với 147 quốc gia có mức phát thải cao (gần 90% lượng phát thải khí nhà kính và trên 90% GDP toàn cầu). Để đạt được mục tiêu trên, các tổ chức như BNEF, IEA, IRENA, và ETC đã đề xuất một số kịch bản và lộ trình khả thi để các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia có thể tham khảo, nhằm triển khai các chính sách và hành động phù hợp để đạt được mục tiêu trên.

Theo kịch bản của BNEF, để đạt được mục tiêu mức phát thải bằng 0 vào năm 2050 (net-zero 2050) thì cơ cấu sử dụng các nguồn (công nghệ) năng lượng của các ngành kinh tế sản xuất trên toàn cầu như sau:

 

Nguồn: BloombergNEF - Triển vọng năng lượng mới (NEO) 2022

Nhận xét: Theo kịch bản do BNEF đề xuất, quá trình “Phi hóa thạch” hoàn toàn cho ngành sản xuất điện và chuyển đổi sang sử dụng nguồn năng lượng sạch là một trong các yếu tố quan trọng nhất để đạt được Kịch bản Net Zero của BNEF, chiếm một nửa tổng lượng phát thải đã giảm trong giai đoạn 2022-50. Thay thế nguồn phát điện dùng nhiên liệu hóa thạch bằng năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng tái tạo (NLTT) khác và hạt nhân. Đối với các ngành kinh tế khác (ngành giao thông vận thải, ngành công nghiệp, xây dựng công trình tòa nhà và hệ thống nhiệt sưởi) cần sử dụng năng lượng, cần thực hiện quá trình điện khí hóa, nguồn điện được sử dụng trong quá trình điện khí hóa cũng phải phải được “làm sạch” dần. Điện khí hóa chiếm tỷ trọng lớn thứ 2 trong cơ cấu trên, đóng góp khoảng ¼ mức giảm khí phát thải trong giai đoạn này. Hydro đóng góp trực tiếp khoảng 6% lượng cắt giảm, có tỷ trọng xếp thứ 3 trong cơ cấu nguồn năng lượng vào năm 2050.

Theo kịch bản nhằm đạt được mức tăng nhiệt độ không quá 1,5oC vào năm 2050 của IRENA, cơ cấu nguồn năng lượng vào năm 2050 như sau:

 

Nguồn: IRENA - Triển vọng chuyển đổi năng lượng thế giới

Nhận xét: Kịch bản 1,5oC của IRENA cũng có một số nét tương đồng với kịch bản của BNEF, nguồn NLTT và Sử dụng hiệu quả năng lượng  chiếm tầm quan trọng lớn, chiếm hơn một nửa trong lộ trình chuyển dịch năng lượng. NLTT bao gồm các nguồn phát điện tái tạo và nguồn năng lượng trực tiếp từ nhiệt tái tạo và sinh khối. Hiệu quả sử dụng năng lượng bao gồm các biện pháp liên quan đến việc giảm nhu cầu và cải thiện hiệu quả, ngoài ra, những quy trình chuyển dịch cấu trúc và các hoạt động của các ngành kinh tế sang hướng tái tạo cũng sẽ góp phần vào Hiệu quả sửn dụng năng lương (ví dụ: di dời sản xuất thép với lượng sắt giảm trực tiếp). Có thể hiểu, Hiệu quả sử dụng năng lượng của kịch bản IRENA sẽ được bao gồm trong phần tỷ trọng của nguồn NLTT trong kịch bản của BNEF. Tương ứng, Điện khí hóa cũng đóng một vai trò không thể thiếu trong cơ cấu ngành (chiếm 20%), cũng là quy trình tiêu thụ trực tiếp năng lượng là điện năng lượng tái tạo trong các ứng dụng/công trình vận tải và nhiệt sưởi. Hydro và các dẫn xuất của nó, bao gồm nhiên liệu tổng hợp và nguyên liệu, là dạng năng lượng chiếm khoảng 10% trong lộ trình trên.

Mức giảm phát thải CO2 trung bình hàng năm trong giai đoạn 2020 -2050 theo kịch bản NZE của IEA

 

Nguồn: IEA - World energy transitions outlook

Nhận xét: Việc triển khai nhanh chóng các công nghệ tiết kiệm năng lượng hơn, điện khí hóa các mục đích sử dụng cuối cùng và tăng trưởng nhanh chóng năng lượng tái tạo đều đóng vai trò trung tâm trong việc giảm lượng khí thải trên tất cả các lĩnh vực ở NZE. Đến năm 2050, gần 90% tổng sản lượng điện là từ năng lượng tái tạo (trong đó Hydro chiếm khoảng 20%), cũng như khoảng 25% sử dụng năng lượng phi điện trong công nghiệp và tòa nhà. Các loại nhiên liệu và công nghệ mới nổi cũng có vai trò quan trọng, đặc biệt là hydro và nhiên liệu dựa trên hydro, năng lượng sinh học và CCUS, đặc biệt là trong các lĩnh vực mà lượng khí thải thường khó giảm nhất.

Theo kịch bản của ETC, trong cơ cấu nguồn năng lượng phía tiêu thụ trong một nền kinh tế không carbon, năng lượng điện sẽ là dạng năng lượng được sử dụng chủ yếu trong các ngành.

 

Nguồn: ETC - Khả thi hóa nền kinh tế hydro – Tăng tốc hydro sạch trong nền kinh tế điện khí hóa

Nhận xét: Tổng nhu cầu tiêu thụ năng lượng sẽ nằm trong khoảng 355 đến 495 EJ mỗi năm. Cơ cấu nguồn năng lượng sẽ có sự thay đổi đáng kể, trong đó:

- Nhu cầu tiêu thụ điện trực tiếp chiếm khoảng ~65% đến 70% so với 19% hiện nay;

- Việc sử dụng hydro hoặc nhiên liệu có nguồn gốc từ hydro chiếm thêm 15% đến 20% nhu cầu tiêu thụ năng lượng;

- Việc tiêu thụ các nguồn năng lượng hydrocacbon lỏng hoặc rắn thay thế – có nguồn gốc từ nhiên liệu hóa thạch hoặc nguyên liệu sinh học – chỉ chiếm 10% đến 15% tổng năng lượng cuối cùng.

Tổng sản lượng hydro hàng năm sẽ tăng từ khoảng 60 triệu tấn (Mt) hiện nay lên 500 đến 800 Mt vào giữa thế kỷ này, để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ hydro, amoniac hoặc nhiên liệu tổng hợp của các ứng dụng/thiết bị. Nhưng tổng sản lượng hydro và sản xuất điện sẽ còn tăng hơn nữa nếu việc sản xuất và lưu trữ hydro được sử dụng cho dịch vụ điều độ linh hoạt lưới điện, có thể sẽ cần thêm 80 đến 110 Mt hydro mỗi năm để lưu trữ và chuyển 2% tổng sản lượng điện toàn cầu.

Có thể nhận thấy, vai trò của hydro xanh trong các kịch bản chuyển dịch năng lượng trên toàn cầu và cho mỗi khu vực có thể có những khác biệt lớn do tác động của nhiều yếu tố, bao gồm các mục tiêu giảm khí nhà kính, các chính sách khởi động giả định, các công nghệ giả định được sử dụng trong các kịch bản, các mục đích sử dụng điện được xem xét và các giả định về chi phí (IRENA, 2020b). Vì các lý do trên, vai trò của hydro xanh trong các kịch bản là rất khác nhau. Tuy nhiên, khi ngày càng có nhiều kịch bản được phát triển hướng tới mục tiêu không phát thải hoặc phát thải ròng bằng không, thì vai trò của hydro xanh sẽ ngày càng nổi bật hơn trong các kịch bản.

II/ Nhưng vì sao vai trò của Hydro xanh lại lớn đến vậy trong tương lai?

Lấy điển hình về lĩnh vực giao thông, động cơ điện là giải pháp có hiệu suất hoạt động và hiệu quả kinh tế tốt nhất để vận hành tàu hỏa, ô tô, phương tiện vận tải hạng nhẹ, xe buýt đô thị và xe tải chạy cự ly ngắn. Giải pháp này kèm theo các địa điểm sạc được bố trí hợp lý. Đối với xe tải hạng nặng chạy đường dài, sẽ có các khác biệt:

  • Loại pin xe điện sản xuất hàng loạt trên thị trường không đủ công suất để vận hành dưới dạng nguồn cấp điện duy nhất. Điều này cũng chưa thể cải thiện trong tương lai gần.
  • Do đó, xe tải điện hạng nặng chạy đường dài sẽ cần sử dụng nguồn điện từ đường dây trên cao hoặc kết hợp với động cơ đốt trong hoặc pin nhiên liệu.
  • Sự kết hợp của nhiều công nghệ động cơ khác nhau có thể phù hợp để giải quyết vấn đề di chuyển tại một số khu vực chưa lắp đặt đường dây điện trên cao. Trong trường hợp không có mạng lưới đường dây trên cao bao phủ toàn diện, hệ thống giao thông giảm phát thải carbon trong tương lai sẽ cần có các xe tải đường dài chạy bằng nhiên liệu tổng hợp.

 

Hình: Hiệu suất riêng và hiệu suất tổng thể của các loại ô tô sử dụng công nghệ truyền động khác nhau.

Nguồn: Agora Verkehrswende, Agora Energiewende and Frontier Economics, Chi phí tương lai của nhiên liệu tổng hợp sản xuất từ điện

Ghi chú: Hiệu suất riêng được đặt trong ngoặc đơn. Các hiệu suất riêng nhân với nhau cho kết quả là hiệu suất tổng thể tích lũy ở các ô trong hình

Theo ý kiến chuyên gia hiện nay, sử dụng điện trực tiếp cũng không phải là một lựa chọn thích hợp cho vận tải hàng không hoặc hàng hải, ngoại trừ một số trường hợp cực kỳ hạn chế. Do đó, hai phân ngành này sẽ yêu cầu các loại nhiên liệu tổng hợp trung hòa khí hậu, cụ thể là H2 để cho pin nhiên liệu và nhiên liệu lỏng hoặc mê-tan tổng hợp từ CO2 cho động cơ đốt trong. Ngoài ra, cần có nhiên liệu tổng hợp để vận hành các thiết bị xây dựng và phương tiện nông nghiệp hạng nặng, do chỉ có thể cấp điện trực tiếp các loại phương tiện này trong một số trường hợp nhất định.

Từ đó có thể đưa ra nhận định, ngoài điện năng lượng tái tạo trực tiếp như điện gió và điện mặt trời, có thể nói Hydro xanh chỉ xếp sau Hiệu quả năng lượng và Điện khí hóa trong lộ trình tiến đến tương lai. Tuy nhiên, Hydro xanh lại đóng một vai trò không thể thay thế. Hiệu quả năng lượng và điện khí hóa sẽ thực hiện khử carbon cho các ngành/lĩnh vực dễ chuyển đổi năng lượng như các lĩnh vực dễ giảm phát thải như tòa nhà, các ngành công nghiệp nhiệt độ thấp (ví dụ: nông nghiệp, bột giấy và giấy) cũng như một số phương tiện giao thông (chủ yếu là các phương tiện vận tải hạng nhẹ và chặng ngắn, cũng như một số phương tiện đường trường có thể triển khai cơ sở hạ tầng sạc điện). Tuy nhiên, đối với các ngành/lĩnh vực khó giảm thiểu phát thải và không khả thi khi áp dụng điện khí hóa như ngành luyện sắt, thép, và kim loại màu (ví dụ: nhôm), hóa chất và hóa dầu (ví dụ: nhà máy lọc dầu, sản xuất amoniac) và khoáng sản phi kim loại (ví dụ: xi măng), giải pháp thay thế duy nhất cho các ngành này là sử dụng hydro xanh. Ngoài ra, trong tương lai, các ngành sử dụng hydro xanh dương như tinh chế hóa dầu, sản xuất amoniac, sản xuất metanol cũng sẽ dần thay thế bằng hydro xanh.


Nguồn: Liên minh hành động của IRENA, giảm phát thải carbon cho các ngành sử dụng điện cuối cùng: Nhận định chuyên sâu thực tế về hydro xanh

III/ Tình hình phát triển của thị trường ngành H2

Theo báo cáo của IEA, năm 2021 ghi nhận con số kỷ lục về công suất lắp đặt mới của các nhà máy điện phân H2 với hơn 200MW, gấp 3 lần so với con số kỷ lục của năm trước đó (2020), nâng tổng công suất lắp đặt trên toàn thế giới lên mốc 500MW. Theo như các báo cáo từ các quốc gia trên thế giới, tổng công suất của các nhà máy điện phân dự án đang hoạt động/ đang được xây dựng/ đã có quyết định đầu tư cuối cùng/ đang trong quá trình nghiên cứu khả thi đến năm 2030 vào khoảng 134-240GW, con số này vượt qua mức kỳ vọng 54-91GW trong các kịch bản trước đó. Triển vọng tăng tưởng của các tổ máy điện phân dự kiến sẽ đạt khoảng 8GW/năm trên toàn thế giới, như vậy quy mô công suất vào năm 2025 sẽ đạt 50GW.

Các công nghệ khác có tốc độ tăng trưởng chậm hơn nhiều. Lấy ví dụ về công nghệ thu hồi carbon trong lĩnh vực sản xuất hydro. Năm 2021, khoảng 0,6 Mt H2 được sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch có ứng dụng công nghệ CCUS, thu được khoảng 10 Mt CO2, khối lượng này ngang mức sản xuất của năm 2020 vì không có dự án mới nào được đưa vào hoạt động. Công suất của năm 2022 được bổ sung thêm nhờ một dự án ở Trung Quốc (với khả năng thu giữ 0,7 Mt CO2 hàng năm) đã được đưa vào vận hành vào tháng 1 năm 2022 và bắt đầu hoạt động trong năm. Danh mục dự án đang tăng lên và nếu được thực hiện, các dự án này sẽ thu được 80 Mt CO2 hàng năm kết hợp với sản xuất hydro vào năm 2030. Còn một số công nghệ hydro khác vẫn chưa có sẵn trên thị trường, chẳng hạn như công nghệ khử sắt trực tiếp (DRI) được ứng dụng trong lĩnh vực sản xuất thép, ứng dụng amoniac trong ngành vận tải hàng hải và sử dụng nhiên liệu tổng hợp trong ngành hàng không.

Báo cáo của IRENA về Geopolitics of the Energy Transformation-The Hydrogen Factor (Địa chính trị của Chuyển đổi Năng lượng-Nhân tố Hydro) có nêu rõ các rào cản sau đây hiện đang là thách thức khiến cho hydro sạch chưa thể đóng góp nhiều hơn vào quá trình chuyển đổi năng lượng:

• Chi phí: Chi phí hydro xanh vẫn còn cao so với các dạng hiên liệu cũ, bao gồm cả chi phí sản xuất chi phí vận chuyển, chuyển đổi và lưu trữ.

• Sự hoàn thiện về công nghệ: Một số công nghệ liên quan đến hydro có mức độ sẵn sàng về công nghệ thấp và cần được thử nghiệm chứng minh ở quy mô lớn hơn.

• Hiệu quả: Sản xuất và chuyển đổi hydro gây tổn thất năng lượng đáng kể ở mỗi giai đoạn của chuỗi giá trị, bao gồm sản xuất, vận chuyển, chuyển đổi và sử dụng. Hơn nữa, việc sản xuất hydro xanh tốn nhiều năng lượng, đòi hỏi phải gia tăng quy mô năng lượng tổng thể.

• Đủ điện năng tái tạo: Đến năm 2050, việc sản xuất hydro bằng các máy điện phân có thể tiêu thụ gần 21 000 TWh – gần bằng lượng điện được sản xuất trên toàn cầu hiện nay (IRENA, 2021a), từ đó kéo theo tình trạng thiếu điện tái tạo có thể trở thành vấn đề lớn đối với hydro xanh.

• Sự không chắc chắn về chính sách và quy định: Mặc dù hơn 140 quốc gia đã cam kết đạt được mức phát thải ròng bằng 0 trong những thập kỷ tới, nhưng tốc độ đạt được những mục tiêu này vẫn chưa chắc chắn. Các khung chính sách ổn định, dài hạn là cần thiết để hỗ trợ phát triển và triển khai trên quy mô lớn.

• Tiêu chuẩn và chứng nhận: Các quốc gia thiếu các cơ chế được thể chế hóa để theo dõi việc sản xuất và tiêu thụ chi tiết cho từng loại hydro (xám, xanh dương, xanh lá) và xác định các đặc tính của nó (ví dụ: nguồn gốc và phát thải trong vòng đời, còn gọi là hệ thống “Đảm bảo nguồn gốc”. Nó được coi là trụ cột của việc hoạch định chính sách hydro xanh) (IRENA, 2020b; IRENA, IEA và REN21, 2020). Hơn nữa, chính sách của một số quốc gia chưa tính toán về tổng mức tiêu thụ năng lượng cuối cùng mà hydro tiêu thụ và chưa công nhận giá trị kinh tế về mặt giảm phát thải của hydro sạch.

• Vấn đề con gà và quả trứng: Có vấn đề con gà và quả trứng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho hydro. Nếu không có đủ quy mô của phía tiêu thụ, các khoản đầu tư vẫn được xem là quá rủi ro đối với phía sản xuất nếu muốn đầu tư trên quy mô lớn nhằm mục đích giảm chi phí sản xuất, và kéo theo là tình trạng không có sự tăng trưởng về quy mô kinh tế từ đó chi phí cho công nghệ vẫn sẽ ở mức cao.

IV/ Vậy điều gì đã khiến thị trường ngành H2 tăng trưởng đột biến trong vòng 2 năm qua?

Trước những năm 2020, thị trường H2 toàn cầu phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan “con gà-quả trứng” điển hình. Về phía cung cấp (phía sản xuất H2 xanh) nhà đầu tư cho rằng mức tiêu thụ chưa đạt đủ quy mô yêu cầu, còn đối với bên cầu (phía tiêu thụ H2 xanh) khách hàng tiềm năng (như các hãng hàng không) gặp khó khăn khi chưa có đủ nguồn cung ổn định với mức giá phải chăng (ví dụ: dầu hỏa tổng hợp dựa trên điện năng E-Kerosene). Để mở rộng quy mô thị trường H2 xanh, đòi hỏi phải có sự phát triển song song từ cả 2 phía cung và cầu và cả về mặt kinh tế và kỹ thuật. Cơ chế thị trường là không đủ để tạo ra sự chuyển đổi đột phá và hiệu quả, để kích hoạt thị trường, cần can thiệp của chính sách nhằm hỗ trợ về khung pháp lý, nghiên cứu - phát triển (R&D) và tài chính cho cả hai phía của thị trường (cung & cầu), đồng thời xây dựng quỹ bù đắp ảnh hưởng của biến đổi khí hậu để tạo nguồn tiền chảy vào thị trường mới này.

Các nước thuộc khối liên minh Châu Âu (EU) đã xây dựng một chiến lược dài hạng để thiết lập chuỗi giá trị toàn diện về một nền kinh tế Hydro, từ đó hình thành hệ thống quản trị và chính sách hỗ trở để làm động lực vận hành thị trường Hydro. Tầm nhìn và mục đích của EU khi xây dựng Chiến lược hydro đó là đưa ngành công nghiệp của Châu Âu trở thành ngành công nghiệp phát thải ròng bằng 0 dẫn đầu thế giới, cả về thiết bị hydro xanh và ngành công nghiệp nặng không carbon. Theo lộ trình của Chiến lược hydro, EU sẽ có ít nhất 6 GW công suất máy điện phân vào năm 2024, đủ để sản xuất tới 1 triệu tấn hydro xanh mỗi năm (Mt/năm), và sẽ tăng lên 40 GW công suất máy điện phân vào năm 2030, kèm theo là mở rộng thêm 40 GW công suất máy điện phân ở các nước láng giềng phía nam và phía đông, từ đó EU có thể nhập khẩu hydro xanh.

Chiến lược này vạch ra một số hành động cụ thể không chỉ cho các nhà sản xuất H2 (phía cung), mà xét cả những thay đổi về quy định chính sách tiêu chuẩn, hỗ trợ cho các khoản đầu tư và phát triển các ứng dụng sử dụng H2 xanh. Chiến lược có lộ trình tiếp cận theo từng giai đoạn cụ thể:

Giai đoạn 1 (2020-2024):  

  • thúc đẩy sản xuất 1 triệu tấn H2 tái tạo, lắp đặt tối thiểu 6 GW công suất máy điện phân H2 tái tạo. 
  • các lĩnh vực ứng dụng cho mục đích sử dụng cuối mới: quá trình công nghiệp, và có thể là vận tải hạng nặng.

Giai đoạn 2 (2025-2030): 

  • 10 triệu tấn H2 tái tạo và lắp đặt tối thiểu 40 GW máy điện phân H2 tái tạo.
  • Các ứng dụng mới: sản xuất thép và vận chuyển, cân bằng hệ thống năng lượng. 
  • “Các thung lũng hydro” (các cụm sinh thái H2 theo khu vực) sẽ xuất hiện, dựa vào hoạt động sản xuất hydro tại địa phương, nguồn NLTT phân tán và nhu cầu địa phương, cự ly vận chuyển ngắn. 
  • Mạng lưới hạ tầng toàn EU dần thành hình.

Giai đoạn 3 (2030-2050): 

  • Triển khai quy mô lớn đến tất cả các lĩnh vực khó giảm phát thải carbon hóa, trong đó có ngành hàng không.
  • Biogas cũng sẽ dần đóng góp nhiều hơn.

Các nhà hoạch định chính sách tại EU đã kiến nghị cần sử dụng đồng thời 5 công cụ sau để đạt hiệu quả đẩy mạnh tăng trưởng cho thị trường H2 xanh như sau:

  • Có một chính sách dài hạn
  • Tạo ra nhu cầu tiêu thụ cho H2
  • Giảm thiểu rủi ro đầu tư
  • Xóa bỏ rào cản
  • R&D và chia sẻ kiến thức

Với công cụ thứ nhất “Chính sách dài hạn”, các nước trong khối EU sẽ vạch ra lộ trình cho H2 xanh và PtX, đưa ra các mục tiêu và mốc tiến độ cụ thể, Chiến lược chuyển dịch cho các ngành công nghiệp, và đạt được các cam kết-thỏa thuận quốc tế. Công cụ thứ nhất được quy định thực hiện tại các cơ sở pháp lý sau: NDC theo Thỏa thuận Paris; Thỏa thuận xanh của EU; Chiến lược hydro cấp quốc gia của Đức; Chiến lược hydro cơ bản của Nhật Bản; Cam kết Văn minh Sinh thái của Trung Quốc; Chương trình "Make in India", …

Công cụ thứ hai “Tạo ra nhu cầu tiêu thụ cho H2” chính là thực hiện định giá mức phát thải, công bố các chỉ thị và lệnh cấm, ban hành các tiêu chuẩn, áp thuế/miễn thuế, và thực hiện quy trình đấu giá ngược. Công cụ thứ 2 được quy định thực hiện tại các cơ sở pháp lý sau: RED II, Tiêu chuẩn nhiên liệu sạch của Canada; Hệ thống giao dịch phát thải EU ETS, quy định về mua sắm công đối với vật liệu carbon thấp của Hà Lan; Nghĩa vụ về nhiên liệu tái tạo cho ngành giao thông vận tải của Vương quốc Anh (RTFO); Miễn thuế 45Q dành cho CCUS của Mỹ, …

Để sử dụng công cụ thứ ba “Giảm thiểu rủi ro đầu tư”, Chính phủ các nước sẽ cho phép các khoản vay/tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh rủi ro và giảm thuế cho các mặt hàng trong chuỗi giá trị Hydro, áp dụng cơ chế giao dịch “đảm bảo nguồn gốc” (guarantees of origin), quy định áp dụng Hợp đồng chênh lệch mức carbon (CCfD). Công cụ thứ 3 được quy định thực hiện tại các cơ sở pháp lý sau: Các khoản vay của ngân hàng chính sách Trung Quốc; Tập đoàn tài chính năng lượng sạch Australia; Các dự án vì lợi ích chung của châu Âu; Chính sách cho vay năng lượng của EIB; Nguồn vốn từ ngân hàng đa phương; Cơ chế Connecting Europe Facility, …

“Xóa bỏ rào cản” lại là công cụ cần được tìm cách áp dụng đồng bộ trên quy mô toàn cầu, đó là thiết lập các tiêu chuẩn an toàn và bền vững, tránh đánh thuế năng lượng hai lần, cấp chứng nhận cường độ và nguồn gốc phát thải CO2, đối chuẩn cho tất cả các quy trình. Công cụ thứ 4 được quy định thực hiện tại các cơ sở pháp lý sau: Mối quan hệ đối tác quốc tế về hydro và pin nhiên liệu trong nền kinh tế (IPHE); Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO); HySafe; Chứng nhận CertifHy của EU, Đạo luật ủy quyền về RED II, …

Quá trình “Nghiên cứu, phát triển và chia sẻ kiến thức” cần được cấp vốn tài trợ trực tiếp, cấp vốn vay ưu đãi, đưa ra các sáng kiến hợp tác đa phương, thực hiện các chiến dịch truyền thông, và trao thưởng/ưu đãi khi có kết quả nghiên cứu khả thi áp dụng thực tiễn. Việc này được quy định cụ thể tại Lộ trình NEDO về pin nhiên liệu và hydro của Nhật Bản; Tầm nhìn đến năm 2020 của EU; Chương trình đổi mới cấp quốc gia của Đức về công nghệ pin nhiên liệu và hydro; Chương trình dành cho pin nhiên liệu và hydro của Bộ năng lượng Hoa Kỳ và chương trình H2@Scale, …

Có thể nhận thấy, từ lâu các nước phát triển đã dần hình thành nên bộ khung để phát triển lĩnh vực Hydro xanh một cách toàn diện

Từ đó cho thấy cấu trúc rất phức tạp của các công cụ chính sách của EU nhằm đạt được mục tiêu khí hậu vào năm 2030. Việt Nam và các quốc gia đi sau có thể tham khảo một số công cụ hữu ích trên. Mục đích của các chỉ tiêu chính sách  là tăng lượng cung và cầu H2 xanh và giảm thiểu rủi ro thương mại cho bên mua!

V/ Bài học cho Việt Nam

Trong Hội thảo tham vấn Đánh giá tổng thể về sản xuất hydro xanh từ các nguồn năng lượng mặt trời và năng lượng gió và tiềm năng sử dụng ở Việt Nam, ông Patrick Haverman - Phó trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam nhận định “Việt Nam là một trong những nước có ưu thế sản xuất điện Hydrogen xanh, vì là quốc gia với tiềm năng năng lượng tái tạo lớn, các mối quan hệ thương mại ưu đãi, chính trị ổn định và gần các nhà xuất khẩu lớn ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nên sẽ hưởng lợi”. Như vậy, Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng cho cả phía sản xuất và phía tiêu thụ, để kết nối vận hành đồng đều cho cả 2 bên, Việt Nam cần bắt tay xây dựng một hệ thống chính sách bền vững và dài hạn, đồng thời phải phát triển đồng bộ với các nước đi trước trong việc phát triển nền kinh tế Hydro như EU và Trung Quốc nhằm đảm bảo Việt Nam không nằm ngoài dòng xuất nhập khẩu của mặt hàng Hydro đang được lưu chuyển trên thế giới.

Zalo
Hotline tư vấn miễn phí: +84 905 24 66 33